Phát triển Ilyushin_Il-10

Khi nổ ra các trận đánh ở Mặt trận phía Đông trong Chiến tranh Thế giới II, Không quân Xô viết (VVS) đã sử dụng loại máy bay cường kích rất nổi tiếng Ilyushin Il-2 Shturmovik, nó được trang bị động cơ thẳng hàng Mikulin AM-38. Với những tiến triển của cuộc chiến, người Xô viết đã tiếp tục phát triển mẫu máy bay mới kế thừa nhưng ưu điểm của Il-2. Mục đích chính là tăng vận tốc và độ cơ động ở độ cao thấp, chủ yếu để tránh pháo phòng không loại nhỏ, đây là thứ vũ khí chính gây nguy hiểm cho máy bay cường kích, và loại bỏ những khuyết điểm của Il-2. Dự án đầy triển vọng nhất về một máy bay đột kích bám sát mặt đất có khả năng cơ động tốt và trọng lượng nhẹ là Sukhoi Su-6, được phát triển bởi phòng thiết kế của Pavel Sukhoi vào năm 1942. Vào cùng thời gian, Sergey Ilyushin cũng phát triển một máy bay hạng nặng VSh hay Il-8 M-71, xuất phát từ thiết kế của Il-2, và phần nào đó hoàn toàn lấy từ thiết kế của Il-2. Cả hai dự án đều được trang bị nguyên mẫu động cơ bố trí tròn M-71, nhưng mẫu động cơ này không được chế tạo.

Năm 1943, Ilyushin bắt đầu công việc đối với máy bay mới mang tên Il-1, đây sẽ là một máy bay tiêm kích-cường kích bọc giáp hạng nặng có 1 hoặc 2 chỗ, có nghĩa là máy bay này chủ yếu để chiến đấu với các máy bay ném bomvận tải. Il-1 tương tự như thiết kế của Il-2, nhưng hiện đại và gọn hơn, và nó có động cơ Mikulin mới là AM-42. Nhưng, không quân đã từ bỏ ý tưởng về loại tiêm kích bọc giáp hạng nặng, vì tốc độ thấp và cũng không đủ khả năng để trở thành một máy bay đánh chặn các máy bay ném bom hiện đại. Do đó, Ilyushin quyết định sửa chữa Il-1 thành một máy bay cường kích hai chỗ, tên gọi mới là Ilyushin Il-10 vào đầu năm 1944 (các số lẻ được dùng cho máy bay tiêm kích). Mùa xuân năm 1944, Il-10 đã thực hiện bay thử nghiệm, và trải qua các cuộc thử nghiệm cấp nhà nước vào tháng 6, sau đó nó đã được chấp nhận đưa vào sản xuất hàng loạt.

Vào cùng thời gian này, Ilyushin cũng đã hoàn thành nguyên mẫu thử nghiệm của máy bay tấn công mặt đất hạng nặng là Il-8, đây cũng là mẫu máy bay xuất phát từ thiết kế il-2 và cùng động cơ AM-42. Nó mang hơn về trọng tải là 1000 kg, nhưng có hiệu suất thấp hơn so với Il-10. Mẫu máy bay cạnh tranh thứ ba là một phiên bản mới của Sukhoi Su-6, cũng trang bị động cơ AM-42. Sau các cuộc thử nghiệm so sánh, Il-10 đã được chọn làm người chiến thắng và trở thành một máy bay tấn công mặt đất mới sẽ được sản xuất cho quân đội Xô viết, dù một số quan điểm cho rằng Su-6 là máy bay tốt hơn, với hiệu suất kém hơn và trọng tải mang được ít hơn, nhưng lại có súng trang bị tốt hơn. Đặc biệt là, nguyên mẫu Su-6 khi thử nghiệm lại mang trọng tải tối đa, đây là nguyên nhân khiến hiệu suất thấp hơn so với Il-10, trong khi đó Il-10 lại thử nghiệm với trọng tại thường. Một số lợi thế của Il-10 là do kỹ thuật tương đồng với Il-2.

Sản xuất

Avia B33 tại Bảo tàng Hàng không Ba Lan

Với quyết định của Ủy ban Quốc phòng Nhà nước (GKO), vào 23 tháng 8-1944, Il-10 đã được sản xuất hàng loạt. Nó được trang bị vũ khí tương tự như mẫu Il-2 mới nhất, với 2 pháo 23 mm WYa-23 và 2 súng máy ở cánh, 1 súng máy bay 12.7 mm cho xạ thủ phía sau, và 400 kg (tối đa 600 kg) bom. Không giống như Il-2 và Su-6, lúc đầu nó dự định mang các rocket.

Việc sản xuất Il-10 bắt đầu tại nhà máy số 1 và số 18 tại Kuybyshev. Loạt máy bay đầu tiên bay vào ngày 27 tháng 9-1944 và 99 máy bay đã được sản xuất vào cuối năm 1944. Loạt máy bay sản xuất đầu tiên đã này sinh những vấn đề về bộ bánh răng, đáng chú ý nhất là những lỗi động cơ và hỏa lực. Đa số những vấn đều được loại trừ vào năm 1945. Máy bay được sản xuất từ tháng 4-1945 có thể mang 4 tên lửa không đối đất không điều khiển. Máy bay sản xuất từ năm 1947 được trang bị vũ khí mạnh hơn, 4 pháo 23 mm NS-23 ở cánh và 1 pháo 20 mm ở phía sau. Il-10 kết thúc sản xuất vào năm 1949, có 4.600 chiếc được chế tại; vào hai năm cuối của giai đoạn sản xuất, chúng được chế tạo tại nhà máy số 64.

Năm 1945-1947, Liên Xô cũng đã chế tạo 280 chiếc máy bay huấn luyện phiên bản UIl-2 hay Il-10U. Buồng của xạ thủ phía sau được thay thế với một buồng của người hướng dẫn lớn hơn, trnag bị hệ thống điều khiển kép. Hiệu suất và cấu trúc của nó tương tự như phiên bản chiến đấu, trừ vũ khí, nó không trang bị 2 pháo, 2 tên lửa và bom.

Năm 1951, hãng Avia của Tiệp Khắc đã có được giấy phép sản xuất Il-10 với tên gọi B-33. Chiếc đầu tiên bay vào ngày 26 tháng 12-1951. Lúc đầu, động cơ là của Liên Xô chế tạo. Từ năm 1952, động cơ cũng được sản xuất tại Tiệp Khắc với tên gọi M-42. Ngoài phiên bản chiến đấu, phiên bản huấn luyện cũng được chế tạo mang tên CB-33. Tổng cộng, 1.200 chiếc B-33 đã được chế tạo vào năm 1956.

Năm 1951, với những kinh nghiệm thu được từ Chiến tranh Triều Tiên, Không quân Xô viết đã quyết định máy bay cường kích động cơ cánh quạt sẽ vẫn tiếp tục được sử dụng, và do đó phiên bản mới của Il-10 là Il-10M đã được chế tạo. Il-10M bay lần đầu vào 2 tháng 7-1951. Nó dài hơn, sải cánh dài hơn, và bề mặt điều khiển lớn hơn, với một bộ thăng bằng dưới đuôi. Nó được trang bị 4 khẩu pháo NR-23 mới được lắp trên cánh, trọng tải tối đa giống như Il-10, và thiết bị dẫn đường mới được lắp đặt, cho phép máy bay có thể bay trong mọi điều kiện thời tiết. Tốc độ giảm một ít, nhưng khả năng điều khiển bằng tay tăng lên. Trong giai đoạn 1953-1954, 146 chiếc Il-10M đã được chế tạo, có 10 chiếc được chế tạo tại nhà máy số 168 tại Rostov-on-Don.

Tổng cộng đã có 6.166 chiếc mọi phiên bản Il-10 được chế tạo, bao gồm những chiếc chế tạo theo giấy phép.

Những cuộc thử nghiệm đã tiến hành thí nghiệm Il-10 với động cơ AM-43 và AM-45, nhưng đều không thành công. Thiết kế tiếp theo của Ilyushin là một máy bay đột kích bám sát hỗ trợ hạng nhẹ Il-16, với hiệu suất tăng lên và vũ khí trang bị tương tự. Nó bay lần đầu tiên vào 10 tháng 6-1945. Việc sản xuất hàng loạt quy mô nhỏ bắt đầu, nhưng công việc đã bị hủy bỏ vào năm 1946 do động cơ AM-43 không đáng tin cậy.